Lịch sử quan điểm của Kitô giáo về phá thai

 Lịch sử quan điểm của Kitô giáo về phá thai.

 

 

Quan điểm của Kitô giáo về phá thai đã phát triển qua nhiều thế kỷ, mặc dù đã có một luồng phản đối nhất quán đối với hoạt động này. Chúng ta hãy cùng xem xét lịch sử của nó theo trình tự thời gian.

 

Giáo Hội hoàn toàn phản đối phá thai, coi đó là một tội trọng. Quan điểm này có thể trái ngược với những thực hành phổ biến trong văn hoá Hy Lạp-La Mã cổ.

 

Một trong những văn kiện Kitô giáo đầu tiên, Didache (Giáo Huấn của Mười Hai Tông Đồ), nêu rõ: “Ngươi không được giết trẻ em bằng cách phá thai cũng như không được giết những gì đã được sinh ra”, cho thấy sự phản đối từ rất sớm và rõ ràng đối với việc phá thai.

 

Trong tác phẩm “Hộ Giáo”, nhà thần học Tertullian viết “Đối với chúng tôi, việc giết người bị cấm hoàn toàn, vì vậy ngay cả đứa trẻ trong bụng mẹ, khi máu của người mẹ vẫn đang được trút ra để tạo nên một con người, thì chúng ta cũng không được phép hủy hoại. Việc cấm sinh nở chỉ là sự giết người nhanh chóng hơn.”

 

Tertullian coi phá thai ngang bằng với giết người, bất kể giai đoạn phát triển của thai nhi. Đây dường như là sự đồng thuận chung liên tục từ năm 70 sau Công nguyên cho đến thời điểm Tertullian viết các tác phẩm vào năm 197 Công nguyên.

 

Thánh Augustine, mượn ý tưởng “Truyền hồn” từ triết gia Aristotle và viết tác phẩm “Về hôn nhân và dục vọng” vào năm 420 Công Nguyên, ngài đã phân biệt một chút giữa “hạt giống được thụ thai” và “hình thành sự sống trong tử cung”.

Điều quan trọng cần biết là mặc dù Thánh Augustine còn những thắc mắc về sự nhập hồn và tình trạng luân lý chính xác của thai nhi giai đoạn đầu, ngài vẫn phản đối mạnh mẽ hành vi phá thai. Ngài coi đó là một sai lầm nghiêm trọng về mặt đạo đức, ngay cả khi ngài không phải lúc nào cũng coi điều đó ngang hàng trực tiếp với tội giết người trong giai đoạn đầu của thai kỳ.

Bất kể suy nghĩ cá nhân của Thánh Augustine là gì, việc đưa ra ý tưởng về sự “trì hoãn truyền hồn” vẫn đóng một vai trò nhất định trong các cuộc thảo luận thần học nhiều năm sau đó.

 

Đức Thánh Cha Gregory I, khi viết “Luân lý trong sách Gióp” vào khoảng năm 580 Công nguyên, đã tiếp tục đứng trong hàng ngũ những người trong Giáo hội hiểu phá thai là tội lỗi và tuyên bố đó là tội giết người khi khẳng định:

“Kẻ nào đã giết một đứa trẻ trong bụng mẹ trước khi nó được sinh ra thì không vô tội.”

Trích dẫn này xuất phát từ Quyển XIV, Chương 14, là phần mà Đức Gregory bình luận Sách Gióp 3:16, khi Gióp ước rằng mình đã không được sinh ra. Trong phần diễn giải, Đức Gregory nói về đoạn này và đề cập đến chủ đề phá thai mà ngài mô tả là một tội lỗi nghiêm trọng. Đức Gregory định hình phá thai như một phần của cuộc thảo luận lớn hơn về tính thiêng liêng của sự sống, về công lý siêu nhiên, cùng những huyền nhiệm của sự sống và cái chết.

 

Không có nhiều điều được viết thêm về chủ đề này cho đến khi Thánh Thomas Aquinas viết về linh hồn và mối quan hệ của nó với cơ thể trong tác phẩm “Tổng Luận Thần Học”.

Cũng như Thánh Augustine, Thánh Thomas Aquinas tin rằng linh hồn chưa có khi thụ thai, nhưng đã được truyền vào ở giai đoạn phát triển sau đó. Quan điểm này ảnh hưởng đến sự hiểu biết của ngài về tình trạng luân lý của phôi thai ở giai đoạn đầu.

Mặc dù Thánh Aquinas không lên án cụ thể việc phá thai trong sách Tổng Luận Thần Học, nhưng khuôn khổ chung của ngài về việc coi trọng sự sống con người và các cuộc thảo luận về các chủ đề liên quan cho thấy ngài coi đó là tội lỗi, đặc biệt là sau thời điểm “truyền sinh khí” hoặc “truyền hồn”.

 

Trong khi cuộc Cải cách là một sự thay đổi lớn trong Giáo hội, một trong nhiều điều bất biến là quan điểm về phá thai.

Luther, trong bài luận viết vào năm 1545 về đoạn 38 Sách Sáng Thế, đã phê bình và liên kết biện pháp tránh thai với việc phá thai như sau:

“Vì vậy, sự gian ác của bản chất con người thật quá lớn! Có bao nhiêu cô gái đã ngăn cản việc thụ thai, giết và tống xuất những bào thai non nớt, mặc dù chính Thiên Chúa mới là chủ sự sống và sinh sản.”

Ông diễn giải hành động của Onan và phát triển lý luận của mình sang các vấn đề rộng hơn về bản chất con người, mục đích thiêng liêng của việc sinh sản và những hàm ý đạo đức của việc ngừa thai hoặc chấm dứt thai kỳ.

 

Calvin, tiếp nối cả giáo huấn của Giáo hội bên cạnh nguồn cảm hứng từ Luther, khi viết bài luận về Sách Xuất Hành năm 1563 đã nói rằng:

“Nếu việc giết một người trong chính ngôi nhà của mình có vẻ khủng khiếp hơn là ở ngoài đồng, vì ngôi nhà là nơi ẩn náu an toàn nhất của anh ta, thì việc giết một bào thai trong tử cung trước khi nó chào đời chắc chắn phải được coi là tàn bạo hơn.

Ở đây, Calvin diễn giải về đoạn văn mà nhiều Kitô hữu cấp tiến sử dụng để nói rằng phá thai là lệnh của Chúa. Luther có cách tiếp cận sát với Kinh thánh hơn trong bài luận của ông về Xuất Hành 21:22-25.

 

Trong khi những người Kháng Cách như Luther và Calvin kiên định với giáo lý của họ về phá thai, thì Giáo hội Công giáo cũng trở nên kiên định hơn. Năm 1869, Giáo hoàng Pius IX đã xóa bỏ sự phân biệt, do Thánh Augustine đưa ra, giữa thai nhi có sự sống và không có sự sống khỏi giáo luật, bằng cách thực sự coi tất cả các vụ phá thai là giết người.

Trong văn kiện “Apostolicae Sedis moderatei“, Giáo hoàng Pius IX đã ra sắc lệnh rằng bất kỳ ai phá thai, bất kể ở giai đoạn nào, đều phải chịu vạ tuyệt thông tiền kết. Điều này có nghĩa là đang khi luôn coi phá thai là tội lỗi, Giáo hội quay trở lại vị trí trước khi có sự phân biệt của Thánh Augustine.

 

Giáo hội Công giáo vẫn tiếp tục khẳng định phá thai là tội lỗi, với việc Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II tuyên bố vào ngày 25 tháng 3 năm 1995 trong tông huấn “Phúc Âm Sự Sống” rằng:

“Tôi tuyên bố rằng phá thai trực tiếp, tức là phá thai với ý chí như một mục đích hoặc phương tiện, luôn luôn cấu thành một sự rối loạn đạo đức nghiêm trọng, vì đó là hành vi cố ý giết một con người vô tội.

 

Tuy nhiên, Giáo hội Tin lành bắt đầu sa vào sự bội giáo về vấn đề này vào những năm 1960 và 1970. Những trường hợp đầu tiên cho thấy lập trường dễ dãi hơn của các giáo phái Tin Lành về phá thai xảy ra vào năm 1967, khi Đại hội đồng của Giáo hội Trưởng Lão thông qua một nghị quyết ủng hộ quyền phá thai trong trường hợp bị hiếp dâm, loạn luân, thai nhi dị tật hoặc đe dọa đến sức khỏe thể chất hoặc tinh thần của người mẹ.

Câu hỏi nảy sinh là điều gì đã khiến các giáo phái này thay đổi lập trường của họ. Dựa trên các sự kiện tại thời điểm đó, có vẻ như phong trào Nữ quyền, cuộc cách mạng tình dục và những thay đổi về văn hóa xuất phát từ mỗi phong trào là chất xúc tác cho sự thay đổi lập trường của các giáo hội Tin Lành chính tuyến.

 

Điều quan trọng cần lưu ý là các giáo phái này không đột ngột tuyên bố phá thai là “ổn” trên toàn thế giới, mà thay vào đó bắt đầu ủng hộ việc hợp pháp hóa phá thai trong một số trường hợp nhất định và nhấn mạnh tầm quan trọng của lương tâm cá nhân khi đưa ra quyết định như vậy. Kể từ những năm 1970, giáo hội Tin Lành đã chứng kiến ​​sự chia rẽ liên tục về vấn đề phá thai. Nhiều giáo phái áp dụng giáo lý tương tự phong trào Nữ quyền hơn là giáo lý thần học đúng đắn.

 

© honestyouthpastor trên Instagram 

 

 

Check Also

Người đàn ông mất đôi chân trong ca phá thai thất bại nay đã trở thành nhà vô địch bơi lội

Ernie Gawilan là một chiến binh. Nhà vô địch bơi lội 30 tuổi này đã …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.