BVSS (18.10.2015) – Thế giới đang đi về đâu ?
Câu hỏi đặt ra không liên quan gì đến vấn đề chính trị, kinh tế, quân sự của thế giới, mà chủ yếu là uy tư về vấn đề luân lý và đạo đức (moral & ethics) của thế giới hôm nay mà thôi
Thật vậy, những ai quan tâm đến luân lý, đạo đức thì phải ngao ngán trước thực trạng suy đồi nghiêm trọng về cả hai mặt này của thế giới hôm nay, đặc biệt là ở những quốc gia có truyền thống Kitô Giáo, như Ý, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Ái Nhĩ Lan (Ireland) Anh Quốc, Canada và Hoa Kỳ. Đây là những quốc gia có đông người theo Kitô Giáo (Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành, Anh Giáo) nhưng nay lại sống phản Kitô giáo (anti-Christianity) cách rõ nét khi cho phép những thực hành vô luân vô đạo như làm ngơ cho sách báo, phim ảnh khiêu dâm được tự do lưu hành, cho li dị, phá thai và hôn nhân đồng tính (same sex marriage).
Đây là một thực trạng đáng buồn, đáng xấu hổ cho những ai thành tâm muốn sống cốt lõi của niềm tin Kitô Giáo và hãnh diện là tín hữu Kitô (Christians).
Sở dĩ thế, vì con người khác thú vật nhờ có đời sống tâm linh, có ý thức luân lý, đạo đức, khác biệt với loài vật chỉ có bản năng và hoàn toàn vô tri.Và đó là lý do tại sao vấn đề luân lý, vấn đề thưởng phạt chỉ đặt ra riêng cho con người mà thôi.
Nhìn vào thực trạng của thế giới hôm nay, người ta phải đau buồn vì các quốc gia có truyền thống Kitô Giáo nói trên đang tiến nhanh, tiến mạnh trên đường suy thoái đạo đức và luân lý, khi họ làm ngơ – hay tệ hại hơn nữa- là cho phép những thực hành mà tự bản chất là phi luân, vô đạo; như cho phép kỹ nghệ dâm ô (pornography) tự do tung hoành, gây tác hại tinh thần lớn lao cho giới trẻ và người lớn, cho phép phá thai và đang làm ngơ cho bọn Planned parenthood ( bọn giúp phá thai) phạm thêm tội ác nữa là khai thác các thai nhi bị giết để lấy các bộ phận trong thân thể của thai nhi như mắt, tim, phổi v.v để bán cho những kẻ cần các bộ phận này, như báo chí Mỹ đang tố cáo. Cho tự do li dị và nay là hôn nhân đồng tính, (same sex marriage) như một thách đố có tác dụng phá đổ nền tảng gia đình dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ.
Gia đình -từ ngàn xưa- là nền tảng của mọi xã hội con người, là hy vọng của mọi dân tộc, – và cách riêng- là tương lai của Giáo Hội. Gia đình chỉ có ý nghĩa trọn vẹn khi có người làm cha, làm mẹ, làm chồng làm vợ. Con cái phải có cha có mẹ thì mới thực sự cảm nhận mình là con cái.
Vậy mà nền tảng gia đình dựa trên những tương giao căn bản cần thiết nói trên đang bị các xã hội bệnh hoạn trên đây phá đổ, khi họ cho định nghĩa lại ý nghĩa và mục đích của hôn nhân để cho phép hôn nhân đồng tính.
Điều này, trước hết, hoàn toàn đi ngược lại mục đích của Thiên Chúa khi tạo dựng con người có nam có nữ và truyền cho họ mệnh lệnh “phải sinh sôi nẩy nở cho thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất.” (St 1: 28).
Đây là nền tảng luân lý, đạo đức và là mục đích của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ từ khi có con người trên mặt đất này.
Vậy mà nay các xã hội bệnh hoạn nói trên cho phép hai người nam hay hai người nữ kết hôn, và gọi đó là hôn nhân như hôn nhân của một người nam và một người nữ từ xưa đến nay, thì làm sao chu toàn được mục đích nói trên của hôn nhân theo ý muốn của Thiên Chúa; nếu các quốc gia có truyền thông Kito Giáo nói trên còn tin có Thiên Chúa là Đấng tối cao, đã tạo dựng muôn loài muôn vật hữu hình và vô hình ?
Nếu tin có Thiên Chúa thì phải thi hành những gì Ngài mong muốn cho con người sống và làm để được chúc phúc ngay từ ở đời này trước khi được cứu độ để vào Nước Trời vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.
Do đó, cho mục đích sống theo đường lối của Thiên Chúa, con người phải sống một đời sống luân lý và đạo đức, để phân biệt mình với những kẻ vô thần (atheists), không tin có Thiên Chúa và luân lý phổ quát (universal moral).
Liên can đến vấn đề hôn nhân đồng tính, nếu cha mẹ của những người đang tán thành hôn nhân đồng tính, cũng là những người đồng tính, thì làm sao sinh ra được họ, để giờ đây họ nhắm mắt bịt tai công nhận hôn nhân giữa hai người đồng tính ? cha mẹ của họ phải là một người nam và một người nữ kết hôn đúng nghĩa với nhau thì mới sinh ra họ, và xã hội con người ở khắp nơi mới tồn tại cho đến ngày nay.
Nay vì muốn chiều theo ý muốn ngang trái của một thiểu số người sinh ra với khuynh hướng bất thường về phái tính (abnormally sexual tendency), người ta đã tán thành và cho phép hôn nhân đồng tính như một định chế tương đương với hôn nhân truyền thống giữa một người nam và một người nữ, như thực trạng của xã hội loài người từ xưa đến nay.
Chúng ta không lên án những người sinh ra với khuynh hướng khác thường nói trên. Nhưng chúng ta không thể công nhận việc công khai sống chung của họ là hôn nhân, như đại đa số những người bình thường khác, đã kết hôn cho mục đích duy trì nòi giống, và chu toàn trách nhiệm của hôn nhân theo ý muốn của Thiên Chúa, là Đấng đã tạo dựng con người có nam có nữ và đã se kết họ trong giao ước hôn nhân để công tác với Chúa trong chương trình sáng tạo nhằm có đông con người sinh ra trong trần thế này.
Chúa Kitô, khi xuống trần gian làm Con Người, cũng đã chọn sinh ra trong một gia đình có mẹ thật là Đức Trinh Nữ Maria, thụ thai nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, và có cha nuôi là Thánh Cả Giuse. Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse chắc chắn là những người bình thường về mọi mặt như mọi con người khác. Hai ông bà kết hôn vì phong tục tập quán của xã hội Do Thái và cũng vì thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa chọn cho Con Một của mình là Chúa Giê su- Kitô sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng trước mặt người đời, Mẹ Maria không thể có con mà không có chồng. Vì thế, Thánh Giuse đã được chọn để đóng vai người chồng của Mẹ Maria trước mặt người đời. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, hai ông bà đều là những người yêu mến đức đồng trinh và muốn tôn vinh Thiên Chúa với đời sống khiết tịnh vẹn toàn của mình.
Thánh gia thất Chúa Giê su, Mẹ Maria và Thánh Giuse là khuôn mẫu cho mọi gia đình nhân loại. Gương mẫu cho mọi con cái, cho những người làm cha, làm chồng, làm vợ và làm mẹ .Đây là thánh ý của Thiên Chúa cho những ai được ơn gọi sống bậc hôn nhân để làm cha, làm chồng, làm vợ và làm mẹ để nuôi dạy con cái là kết quả và là mục đích của hôn nhân thánh thiện theo kế hoạch của Thiên Chúa, được Chúa Giê su nâng lên hàng bí tích với lời dạy sau đây:
Để trả lời những người Biệt phái đến hỏi Chúa Giê su xem người ta có được phép li dị không, Chúa đáp: Các ông không đọc thấy điều này sao ? “Thuở ban đầu, Đấng tạo hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán : vì thế người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt . Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân li.” (Mt 19: 4-6)
Trên đây là giáo huấn của Chúa Giê su mà Giáo Hội có bổn phận truyền dạy cho con cái mình tôn trọng và thi hành để được cứu rỗi.Giáo huấn này không ai được phép cắt nghĩa cách khác và thay đổi vì bất cứ lý do nào.
Mới đây, trong dịp tiếp kiến các Giám mục của Công Hòa Đô-mi-nícan ngày 28 tháng 5 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với các giám mục như sau:
“Chúng ta hãy tiếp tục phô bày vẻ đẹp của hôn nhân Kitô giáo: kết hôn trong Chúa là một hành động của đức tin và đức ái: qua đó người phối ngẫu với tự do ưng thuận, trở thành phương tiện chuyên chở phép lành và ơn phúc của Thiên Chúa cho Giáo Hội và xã hội.”
(Let us continue to present the beauty of Christian matrimony: to marry in the Lord is an act of faith and love, in which the spouses- through their free consent, become a means of passing on the blessing and grace of God for the Church and society. (L ‘Osservatore Romano, number 23, Friday, June 5, 2015)
Như thế, hôn nhân Kitô giáo không thể là hôn nhân giữa hai người nam hay hai người nữ có khuynh hướng đồng tính được, mà phải là hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, theo ý muốn của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng con người có nam có nữ; và cũng là truyền thống đã có từ bao thế hệ qua trong mọi nền văn hóa, phong hóa của mọi dân tộc trên thế giới từ xưa đến nay.
Đây là vấn đề có liên quan mật thiết đến luân lý và đạo đức, là nền tảng của đời sống con người, chứ không phải là vấn đề tôn trọng quyền sống của cá nhân ai như người ta đang nại ra để cho phép hôn nhân đồng tính.
Đó là vấn đề luân lý, đạo đức, vì luân lý phổ quát dạy mọi người là phái tính (sexuality) chỉ tự nhiên giữa một người nam và một người nữ tự do kết hôn với nhau theo truyền thống và phong hóa của mọi dân tộc.
Do đó, hai người nam hay hai người nữ mà có liên hệ phái tính với nhau thì đây là điều trái tự nhiên (unnatural) và vô luân (immoral)
Tác giả Sách Lê vi đã lên án sự phối hợp phái tính trái tự nhiên nói trên như sau:
“ khi người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm…” (Lê vi 20: 13)
Như vậy, công nhận cho hai người đàn ông hay hai đàn bà kết hôn có nghĩa công nhận sự vô luân về phái tính; hay nói khác đi, công nhận sự chung đụng xác thịt giữa hai người nam hay hai người nữ là điều cũng tự nhiên như sự chung đụng của một người nam và một người nữ kết hôn trong mọi gia đình nhân loại từ xưa đến nay ?
Nếu thế thì những việc vô luân khác như thủ dâm (masturbation) loạn dâm = loạn luân (incest) ấu dâm (child prostitution) và thú dâm (sodomy), thông dâm (fornification) ngoại tình (adultery)… đều không còn là những hành vi vô luân nữa, vì chúng đều xuất phát từ những khuynh hướng hay ước muốn vô trật tự và vô luân (inordinate, immoral) của con người !, tương tự như khuynh hướng đồng tính bất thường mà người ta đang cho phép người có khuynh hướng này kết hôn, tức là công nhận việc ăn nằm của họ là không có gì ngăn trở về luân lý !!!
Đây rõ rệt là một suy thoái nghiêm trọng về luân lý hôn nhân, và luân lý phổ quát (universal moral) của các xã hội bệnh hoạn nói trên. Chắc chắn Giáo Hội sẽ không bao giờ cho phép hay công nhận loại hôn nhân đồng tính này, vì nó vừa sai trái nặng về mặt luân lý – và nghiêm trọng hơn nữa- là đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa về ý nghĩa và mục đích của bí tích hôn phối mà Giáo Hội có bổn phận bảo vệ và thi hành không chút nhân nhượng.
Giáo Hội không lên án những người có khuynh hướng đồng tính, nhưng không thể cho phép họ sống chung như vợ chồng được, vì việc sống chung này là điều trái tự nhiên và vô luân. Do đó, những ai đang sống trong tình trạng này thì không được đến với hai bí tích hòa giải và Thánh Thể, mặc dù họ vẫn có thể đến nhà thờ để cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ cùng với các giáo dân khác.
Sau hết, một điểm thắc mắc không thể bỏ qua là những đứa trẻ được các cặp hôn nhân đồng tình này nhận làm con nuôi, thì chúng sẽ nghĩ gì về việc chúng chỉ có hai bà mẹ hay hai người cha trong gia đình? Và gương xấu này sẽ tác hại ra sao khi các trẻ đó lớn lên với hai người cha hay hai người mẹ??? Nếu chúng cũng là những đứa trẻ sinh ra với khuynh hướng tính dục khác thường như người nuôi dạy chúng, thì không nói làm chi. Những nếu chúng- mà đa số chắc chắn như vậy- là những trẻ sinh ra với mọi khuynh hướng bình thường, thì việc sống chung với những người bất bình thường kia sẽ là một tai hại lớn cho chúng về mặt tình thần, tình cảm và luân lý. Như thế, những kẻ cho phép hôn nhân đồng tính sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những tai hại tinh thần, tình cảm và ý thức luân lý của các trẻ được nuôi dạy trong môi trường đồng tính.
Vậy những kẻ đang nhắm mắt công nhận hôn nhân đồng tình sẽ trả lời thế nào về nạn đề nói trên, liên quan đến các trẻ em được các người đồng tính nhận nuôi dạy trong các gia đình bất bình thường của họ ?
Tóm lại, định nghĩa lại hôn nhân để công nhận hôn nhân giữa hai người nam hay hai người nữ là một suy thoái nặng nề về luân lý và đạo đức cần phải quan tâm và lên tiếng trước thực trạng đáng buồn của thế giới tục hóa hiện nay.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn