Hiện nay, quan hệ tình dục tuổi vị thành niên và tình trạng nạo phá thai ở lứa tuổi này đang là một vấn đề xã hội của mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo các chuyên gia điều trị vô sinh hiếm muộn, tỉ lệ vô sinh thứ phát sau nạo hút thai ngày càng gia tăng, đặc biệt ở đối tượng phụ nữ trẻ tuổi.
Theo báo cáo của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc 2022 (UNFPA), Việt Nam thuộc nhóm 20 nước có tỉ lệ nạo phá thai vị thành niên cao nhất thế giới. Chỉ có 20% phụ nữ chưa kết hôn sử dụng biện pháp tránh thai khi quan hệ tình dục, thậm chí tỉ lệ sử dụng biện phát tránh thai ở nhóm tuổi nữ 15-19 tuổi chỉ rất thấp, chỉ đạt 4%, tỉ lệ mang thai ngoài ý muốn của nhóm này lên tới 8,6%.
Hàng năm tại Việt Nam có khoảng 300.000 ca nạo phá thai, trong số này 30% là phụ nữ từ 15-19 tuổi với 70% là học sinh sinh viên.
Việc nạo phá thai ở tuổi vị thành niên có thể dẫn đến rất nhiều hậu quả về sức khoẻ, tâm lý và xã hội. Việc thiếu kiến thức về việc có thai dẫn đến có khi thai to rồi mới phá làm cho các tai biến càng trầm trọng hơn đặc biệt là vô sinh sau này. Theo thống kê, có tới 70% phá thai vị thành niên là thai trên 12 tuần.
Hậu quả về sức khoẻ: Rối loạn kinh nguyệt là tương đối thường gặp, sót rau phải nạo hút lần hai, sang chấn tử cung như thủng, rách cổ tử cung… Nhiễm trùng, chủ yếu là do thực hiện ở các cơ sở y tế không đủ điều kiện hoặc vô khuẩn kém, không hoặc ít sử dụng kháng sinh và nội tiết chống dính buồng tử cung sau nạo hút, có thể là do giấu giếm.
Hậu quả sang chấn tâm lý: Các trường hợp sang chấn tâm lý nặng như suy nhược thậm chí trầm cảm đã được ghi nhận nhiều, thường là những trẻ không có sự hỗ trợ từ gia đình hoặc giấu giếm chuyện phá thai. Một số báo cáo ghi nhận tại Phần Lan và Nhật Bản cho thấy có sự gia tăng tỉ lệ tự tử sau nạo phá thai vị thành niên. Các sang chấn khác như rối loạn lo âu, nghiện rượu và các chất gây nghiện.
Hậu quả xã hội: Có thai sớm sẽ làm giảm cơ hội học tập và làm việc của phụ nữ trẻ, điều này có khuynh hướng làm cho họ và con cái của họ sẽ xu hướng có cuộc sống sau này bấp bênh hơn. Bên cạnh đó là gánh nặng trực tiếp mà xã hội phải gánh chịu: Gia tăng trợ giúp y tế, trợ cấp đói nghèo và gián tiếp tạo ra lao động có trình độ thấp
Vô sinh thứ phát: Do tổn thương buồng tử cung dẫn đến dính buồng tử cung, tắc vòi trứng, ứ dịch vòi trứng. Việc này để lại là sau này kết hôn không có khả năng mang thai tự nhiên, tỷ lệ vô sinh cao gấp 3-4 lần đối với những người không có tiền sử nạo phá thai.
Theo nhiều nghiên cứu tỉ lệ vô sinh do dính buồng tử cung chiếm khoảng 5% số các trường hợp vô sinh, trong đó 95% là sau nạo hút thai. Vô sinh do tắc vòi trứng hoặc ứ dịch vòi trứng chiếm tới 40% số vô sinh nữ, trong số này có tới 50% là có tiền sử nạo hút thai.
Tỉ lệ sẩy thai khi mong muốn có con cũng cao hơn nhóm không có tiền sử nạo hút, do tổn thương cổ tử cung nhất là khi tử cung còn chưa phát triển hoàn thiện để mang thai khi vị thành niên.
Để giúp những người phụ nữ này lấy lại khả năng sinh sản, bác sĩ sẽ phải mổ nội soi gỡ dính buồng tử cung hoặc gỡ dính vòi trứng, và có nhiều trường hợp không thể có thai tự nhiên lại được và phải làm thụ tinh trong ống nghiệm rất tốn kém.
Trung bình một ca thụ tinh ống nghiệm sẽ mất kinh phí khoảng 100 triệu đồng, và tỉ lệ thành công không phải là 100% mà chỉ đạt từ 55-60%. Những người phụ nữ có tiền sử nạo phá thai mà vô sinh do dính buồng tử cung và/hoặc tắc- ứ dịch vòi trứng còn tốn thêm tiền phẫu thuật nội soi từ 10-20 triệu đồng, gây tốn kém thêm về chi phí điều trị.
Từ đây gia tăng thêm các gánh nặng về kinh tế và đói nghèo dai dẳng nhiều năm sau đó của những trẻ vị thành niên nạo phá thai.
Nguồn: Laodong.vn