V. TỰ KIỀM CHẾ VÀ TỰ CHỦ VỚI HIỂU BIẾT LÀ KHẢ THI VÀ SINH ÍCH LỢI
22. Giáo Hội có dạy ta nên có nhiều con cái tùy theo khả năng sinh lý cho phép không?
Trong khi Giáo Hội khẳng định giá trị của sự sống và loài người, tuân theo huấn thị chung của Thiên Chúa: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất” (St 1, 28), thì điều này không có nghĩa là có nhiều con cái tùy theo khả năng sinh lý. Theo luật Chúa, Giáo Hội khuyến khích người làm cha mẹ thực hiện trách nhiệm trong sinh sản.
23. Có điều gì khác nhau giữa Giáo huấn về trách nhiệm trong sinh sản và tránh thai?
Bình diện quan trọng nhất của trách nhiệm trong sinh sản là tôn trọng trật tự luân lý khách quan do Thiên Chúa thiết lập. Ý thức này sẽ hướng dẫn đôi vợ chồng nhận ra bổn phận của họ đối với Thiên Chúa, chính bản thân họ, gia đình và xã hội, trên một bậc thang giá trị đúng đắn.
Khi đề cập đến số con cái, không thể đánh đồng ý thức trách nhiệm trong sinh sản với ý muốn tránh có con. Trách nhiệm trong sinh sản được thể hiện “bằng quyết định cao thượng và thận trọng để dưỡng nuôi một gia đình sung túc, quyết định này được hình thành từ những lý do nghiêm túc và phải tôn trọng luật luân lý, để không sinh thêm con trong một thời gian định kỳ hay vô hạn” (HV10).
Trách nhiệm trong sinh sản còn đòi hỏi kiến thức hiểu biết và tôn trọng tiến trình sinh học trong truyền sinh, đồng quan trọng với rèn luyện tự kiềm chế và tự chủ bản năng, cảm xúc và đam mê.
24. Đôi vợ chồng có thể áp dụng điều gì khi có ước muốn hạn chế số con cái trong thời gian tạm thời hay vô định?
Họ có thể tiết dục trong đời sống vợ chồng, hoặc có thể quan hệ tình / dục trong những thời kỳ mà người phụ nữ không có khả năng sinh sản. Sự tiết dục định kỳ là một cách sống tốt và phù hợp luật (luân lý) với ai có lý do nghiêm túc và ý thức đúng đắn (khác hẳn não trạng chống lại sự sống hoặc tâm lý tránh thai). Việc quan tâm theo dõi chu kỳ sinh sản tự nhiên trong hôn nhân hoàn toàn không trái luật luân lý, vì hai tính chất hiệp nhất và mở ra cho sự sống được kết hợp khi áp dụng phương thế trên, thì đã có sẵn và không thể tách lìa trong bản chất của hành vi phối ngẫu vợ chồng. Như thế, đôi vợ chồng đón mở sự sống ngay khi họ không cố ý dứt khoát ngăn chặn sự sống. Đây chính là bản chất toàn thể nhân vị và trao hiến trọn vẹn.
25. Nhưng cả hai nhóm người sử dụng biện pháp tránh thai và tiết dục theo chu kì sinh sản tự nhiên, đều muốn cùng một điều. Vậy tại sao không dùng biện pháp kỹ thuật cho hiệu quả nhât?
Trên quan điểm luân lý, người sử dụng biện pháp tránh thai và người thực hành tiết dục theo chu kỳ sinh sản tự nhiên cho một lý do phù hợp luật, họ không nhằm cùng mục tiêu. Tên ăn trộm và người công nhân có thể muốn điều giống nhau (tiền bạc để tiêu xài), nhưng tên trộm sử dụng phương tiện phi luân trong khi người kia tôn trọng luật Chúa, cùng là để có tiền ; chưa kể cách thức kiếm tiền sẽ định hình phong cách tiêu xài. Cùng là tiền,với tên trộm là phi pháp, còn với anh công nhân là tìm kiếm sống.Biện pháp tránh thai khác biệt sâu sắc so với tiết dục định kỳ về bản chất phi luân. Hiểu cách đúng đắn và hoàn chỉnh, kế hoạch gia đình theo tự nhiên (NFP) không phải là một biện pháp tránh thai nhưng là một nếp sống tôn trọng luật Chúa.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chỉ ra sự khác biệt này như sau:
Về mặt nhân học và luân lý, sự khác biệt giữa tránh thai và sử dụng những thời gian không thể thụ thai là rất quan trọng và sâu xa hơn người ta tưởng, bắt nguồn từ hai khái niệm không thể giản lược với nhau về con người và về tính dục của con người.
Trong hôn nhân, hai vợ chồng hiến thân trọn vẹn cho nhau. Việc tránh thai biểu lộ sự mâu thuẫn ngược lại tự nhiên, khi họ không còn tự hiến cho người kia cách trọn vẹn. Từ đó, không những họ chủ tâm khước từ mở ngỏ cho sự sống, họ còn làm sai lạc chân lý nội tại của tình yêu vợ chồng : tự bản chất là trao ban toàn thể nhân vị.
Việc chọn theo những nhịp tự nhiên bao gồm nhịp sống của con người biểu hiện bằng chu kỳ sinh sản nữ, cũng là đón nhận sự đối thoại, kính trọng lẫn nhau, tinh thần trách nhiệm, sự tự chủ nhờ nếp sống tiết dục. Đón nhận và sử dụng hài hòa thời gian sinh học của con người và không gian đối thoại của vợ chồng, chính là nhận biết đặc tính thống nhất giữa tinh thần và thể xác trong tiến trình hiệp nhất, nơi đây vợ chồng sống tình yêu con người với đòi / hỏi sống thủy chung.
Một khi tinh thần và thể xác được thống nhất, đôi vợ chồng kinh nghiệm được các giá trị phong phú trong ân / ái, họ thể hiện được bản chất sâu xa của hành vi tính dục con người, ngay cả trong bình diện thể lý. Như thế, tính dục xứng đáng được tôn trọng vớ chiều kích thực sự nhân bản, nên không thể được sử dụng như một đồ vật gây tan rã sự thống nhất giữa tinh thần và thể xác trong bản tính người mà Thiên Chúa đã sáng tạo theo hình ảnh mình (Trích FC 32).
26. Tiết dục theo chu kỳ sinh sản tự nhiên có khả thi không? Phải chăng nó đòi hỏi quá nhiều ở đôi vợ chồng?
Có nhiều tình huống xảy đến trong cuộc sống, mà vợ chồng được mời gọi sống tiết dục, như: bệnh tật, đi xa, chăm sóc người thân,… Như bất cứ khả năng nào của con người, việc quan hệ tình dục đòi phải được lý trí đúng đắn hướng dẫn, không bởi đam mê mù quáng. Tính chân lý của luân lý phải được giương cao luôn luôn, không chỉ trong lãnh vực tính dục, mà cả trong mọi lãnh vực khác. Việc tiết dục định kỳ phụ thuộc vào khả năng chế ngự bản năng, đây chính là một biểu thị nói lên trách nhiệm trong sinh sản. Một khi có thể tự chủ, tình yêu sẽ trở nên nhân bản và chân thật hơn.
Ngoài ra, có nhiều phương thế để phát triển khả năng tự chủ, đặc biệt cậy nhờ vào ân sủng của bí tích hôn phối, tinh thần phó thác của con cái Chúa, và nếp sống khổ chế Kitô giáo.
Hơn nữa, những quy phạm này thật phù hợp để giữ đức khiết tịnh của ơn gọi hôn nhân, giúp tránh xa các tổn thương trong tình yêu vợ chồng, và còn đem lại một nhân phẩm cao quý.